Chia sẻ Những ngôi lăng mộ đá cổ nhất Việt Nam

Thảo luận trong 'Quảng cáo tổng hợp' bắt đầu bởi scholes_kaka, 24/11/14.

  1. scholes_kaka PageRank 1 Member

    Tham gia ngày:
    20/4/14
    1, lăng Mộ cổ bằng đá của hoạn quan, 200 năm trong lòng thành phố Thanh Hóa.

    Quần thể khu di tích lăng mộ đá tại phố Nam Sơn, phường An Hoạch, thành phố Thanh Hóa. Đây là một công trình kiến trúc nghệ thuật gắn với lịch sử có tính chất độc đáo. Tổng quan là một khu lăng mộ, trong đó có nhiều công trình nghệ thuật điêu khắc hoàn toàn bằng đá.

    Theo những người cao niên tại đây kể lại, xưa kia trong làng có một người tên là Lê Trung Nghĩa, gia đình ông vốn nghèo khó đến nỗi phải trốn làng bỏ đi để không phải làm theo nhưng tục lệ của làng. Sau thời gian lưu lạc khỏi làng, ông đã đi lính cho triều đình được chọn làm quân cấm vệ và tình nguyện bị “hoạn” để phục vụ trong cung. Do có nhiều đóng góp cũng như lòng “trung quân ái quốc” nên ông được thăng chức cao lên đến Đô đốc Tổng trấn tước Quận Công và được gọi là Quận Mãn.

    Ông Lê Đình Nhung, 68 tuổi là người con của dòng họ Lê Đình hiện đang trông coi khu lăng mộ kể: “Sử cũ ghi lại, vào năm 1786, vua Lê Chiêu Thống và chúa Trịnh Bồng đã xảy ra xung khắc với nhau. Vua Lê Chiêu Thống đã sai tướng Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An kéo quân ra hộ giá. Lúc này, Lê Trung Nghĩa đang làm trấn thủ tại Thanh Hóa được giao nhiệm vụ đem quân chặn đánh Nguyễn Hữu Chỉnh ở địa phận huyện Tĩnh Gia. Ông Lê Trung Nghĩa bại trận và bị giết chết”.

    “Ông (Quận Mãn) khi còn sống, biết mình không con cháu thờ tự khi qua đời nên ông đã tự bỏ tiền mua ruộng đất của 9 làng quanh khu vực này cho nhân dân cày cấy. Khi ông còn sống dân làng biết ơn ông có công khai đất lập làng nên đã xin được lập một sinh từ cho ông. Khu sinh từ này rộng mấy ha nằm trên một khu đất cao ráo, ông đã thuê thợ đá làng Nhồi, huyện Đông Sơn lấy đá về xây dựng lên các khu thờ tự cùng với các pho tượng nhân, vật nguyên khối đặt xung quanh. Tới khi ông chết dân làng đem xác ông về đây chôn cất, thờ cúng nên được gọi là lăng mộ”, ông Nhung kể tiếp.

    Tuy nhiên, hiện nay công trình kiến trúc bằng đá này đang xuống cấp nghiêm trọng. Các pho tượng đá do thời gian đã bị sứt mẻ…. “Cụ rùa” nằm ngay cổng đi vào của khu lăng mộ đã bị mất phần đầu nhô ra, đặc biệt là 4 tấm văn bia được đặt trên nền đất nên đang bị lún nghiêm trọng, không có mái che nên các văn tự trên đây đang bị mờ đi, xung quanh cỏ mọc um tùm.

    Hàng năm, khu lăng mộ đá này có rất nhiều người dân địa phương cũng như khách thập phương về dâng lễ và tham quan. Có cả khách nước ngoài về tham quan công trình kiến trúc đá cổ này.

    2, Lang mo da họ Ngọ – Hiệp Hòa -Bắc Giang.

    Lăng họ Ngọ (còn gọi là Linh Quang từ) được xây dựng vào năm Chính Hòa thứ 18 (1697) ở làng Thái Thọ, xã Thái Sơn, huyện Hiệp Hòa. Đây là nơi lưu giữ di hài Quận công Ngọ Công Quế, một võ quan nổi tiếng dưới triều vua Lê Hy Tông (1676 – 1705). Lăng được xây khi Quận công Ngọ Công Quế còn sống.

    Lăng xây bằng loại đá muối và đá ong lấy từ núi Y Sơn, xã Hòa Sơn, cách đó khoảng 1,5 km. Tổng diện tích khuôn viên khu lăng mộ đá khoảng 400 m2. Lăng hình chữ nhật, cửa hướng về phía Nam, phía trước có ao hình chữ nhật, bốn phía trước kia có tường xây bằng đá ong. Cổng dẫn vào lăng xây kiểu vòm cuốn. Hai bên cổng có 2 con chó đá. Qua cổng lăng, trên khu đất trước mộ phần, hai bên có 2 dãy tượng đá đứng chầu uy nghiêm.


    Đặc biệt, trong lăng có đôi voi đá được tạc ở tư thế quỳ, vòi cuộn gập lên miệng trông rất đẹp. Ngoài ra còn có đôi ngựa bằng đá có dáng cân đối, khỏe, đẹp. Đôi nghê đá trong tư thế đứng, râu cằm xoắn, đầu to, bờm ngắn. Đôi cá sấu đá miệng mở rộng để lộ viên ngọc lớn, thân, lưng và đuôi cùng 4 chân được chạm trổ công phu… điển hình cho nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc trang trí thời Lê-Mạc.

    3, Quần thể lăng mộ đá Dinh Hương – Hiệp Hòa – Bắc Giang

    Tại làng Dinh Hương, xã Đức Thắng, thị trấn Thắng, một địa danh nằm cách khu lăng họ Ngọ khoảng 1,5 km về hướng Tây Nam. Ở đó có quần thể khu lăng Dinh Hương bằng đá xanh rất hoành tráng được xây dựng vào năm 1729, tức dưới triều Lê Trung Hưng (1533 – 1788). Lăng Dinh Hương rộng khoảng 300m2, nằm trên một quả đồi thấp tròn, mặt ngoảnh về hướng Đông, xưa có tường đá ong bao quanh. Lăng Dinh Hương là nơi an nghỉ của vị võ quan thủy binh La Đoan Trực (1688-1749).

    Quần thể lăng đá Dinh Hương chia làm 3 phần chính: Phần mộ táng ở giữa, phần thờ tự ở bên trái, phần bia ở bên phải. Lăng đá có hệ thống tượng người và thú vật tạc bằng đá xanh, kích thước lớn, hình khối mập, chắc, chạm tỉa công phu. Trong lăng có 2 bức tượng đá tạc hình hai vị võ tướng dắt ngựa đứng chầu đối diện nhau. Cặp tượng này được coi kiệt tác của nghệ thuật chạm khắc đá của người Việt xưa. Tượng võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên trái râu dài, mặt nhỏ; võ quan đeo gươm dắt ngựa phía bên phải mặt to, hàm rộng. Toàn bộ hình khối tượng được chạm khắc công phu làm toát nên vẻ đạo mạo, phi phàm.

    Phía trước mộ phần có một khoảng sân rộng bằng gạch. Trên sân, ngoài cùng có đôi tượng voi bằng đá trong tư thế phủ phục trông hiền lành, thuần phục. Vào phía trong một chút, ngay hai bên hương án là hai con nghê đá trong tư thế ngồi, mặt ngửa lên trời cao. Toàn thân nghê đá là một lớp lông hình vảy rồng, đầu phủ bờm dài được chạm khắc tuyệt đẹp. Phía trong cùng, hai bên mộ phần có hai tượng nữ quan đứng hầu mang vóc dáng và dung mạo sống động như nguyên mẫu đời thường.

    Trải qua thời gian, những pho tượng đá ở các khu lăng mộ này vẫn còn khá nguyên vẹn và tuyệt đẹp như xưa, như minh chứng cho một thời kì vàng son của kĩ thuật điêu khắc đá của người Việt.
     
    #1

Chia sẻ trang này